Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Hà Nội sẽ thiếu điện


Theo Quy hoạch phát triển điện lực TP Hà Nội và tỉnh Hà Tây (cũ), giai đoạn năm 2006-2010 có xét đến năm 2015 đã được Bộ Công thương phê duyệt, trong giai đoạn năm 2006-2010 khối lượng các công trình lưới điện 220kV-110kV cần được đầu tư xây dựng rất lớn.
Tuy nhiên, khối lượng thực tế đạt được thấp hơn nhiều so với dự kiến, nhất là lưới điện 220kV đã không đóng điện được một công trình nào (trừ TBA 220kV Vân Trì đã xây dựng xong, nhưng đường dây đấu nối lại chưa xây dựng).
Công nhân chi nhánh điện Thanh Trì lắp mới trạm biến áp tại thị trấn Văn Điển. Ảnh: Trung Kiên
Đã từng... chậm tiến độ
Để bảo đảm cung cấp điện cho Hà Nội trong các năm 2010, 2011, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Tập đoàn EVN và Tổng Công ty Điện lực TP Hà Nội (EVN HNPC) đầu tư các công trình cấp bách. Theo đó, mỗi trạm 220kV Chèm, Hà Đông, Mai Động đã được nâng công suất lên 250MVA, hoàn thành xây dựng trạm 220kV Vân Trì và cải tạo thay dây 220kV Thường Tín - Mai Động; đóng điện đưa vào vận hành 24 công trình lưới điện 110kV với tổng công suất các trạm 110kV tăng thêm 459MVA và 81,5km đường dây.
Vì vậy, năm 2010-2011, về cơ bản lưới điện đã bảo đảm cung cấp cho Hà Nội phục vụ sản xuất, đời sống sinh hoạt của nhân dân và các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng. Tuy nhiên, do năm 2011 không có công trình lưới điện 220kV xây mới nào được thực hiện, nên hiện nay hầu hết lưới điện 220kV cấp điện cho Hà Nội vận hành trong tình trạng đầy tải, quá tải.
EVN HNPC cho biết, năm 2012 nhu cầu tiêu thụ điện của Hà Nội được tính toán theo 2 phương án cao và cơ sở. Theo đó, phương án cơ sở, điện thương phẩm tăng trưởng 13% so với năm 2011, tương ứng với sản lượng 10,76 tỷ kWh, công suất khoảng 2.400MW; phương án cao, điện thương phẩm tăng trưởng 14% so với năm 2011, tương ứng sản lượng điện 10,86 tỷ kWh. Tốc độ tăng trưởng dự báo cao hơn dự kiến đã được phê duyệt tại quy hoạch phát triển điện lực Hà Nội giai đoạn 2011-2015 có xét đến năm 2020. Theo báo cáo, đến nay EVN đã hoàn thành đưa vào vận hành các công trình lưới điện 500kV quan trọng xung quanh TP Hà Nội và tăng cường khả năng truyền tải công suất từ các nguồn điện lớn như Nhà máy thủy điện Hòa Bình, các nhà máy nhiệt điện khu Đông Bắc để cấp điện cho Hà Nội, như trạm 500kV Quảng Ninh, máy 2 trạm 500kV Thường Tín, máy 2 trạm 500kV Nho Quan, trạm 500kV Hiệp Hòa và các đường dây 500kV Quảng Ninh - Thường Tín, Sơn La - Hiệp Hòa. Như vậy, kết cấu lưới điện 500kV xung quanh khu vực Hà Nội hoàn toàn đáp ứng cung cấp điện an toàn tin cậy cho Hà Nội trong năm 2012. Nhưng, việc bảo đảm cung cấp điện cho Hà Nội trong năm nay cũng như các năm tiếp theo sẽ phụ thuộc nhiều vào tiến độ đầu tư xây dựng và đóng điện vận hành của các công trình lưới điện 220kV-110kV. Cụ thể, quý I năm nay, EVN sẽ đưa vào vận hành đường dây 500kV Sơn La - Hiệp Hòa để truyền tải công suất từ Nhà máy thủy điện Sơn La tới khu vực phía bắc Hà Nội. Việc truyền tải để cấp điện cho Hà Nội sẽ không thực hiện được, nếu các đường dây 220kV Vân Trì - Sóc Sơn và Vân Trì - Chèm chậm tiến độ.
Tiếp tục chậm, Hà Nội sẽ thiếu điện
Để đáp ứng nhu cầu phụ tải của Hà Nội khoảng 2.400MW, theo dự kiến sẽ cần nhu cầu tổng dung lượng các trạm 220kV trên địa bàn khoảng 3.200MVA. Trong khi đó, đến nay tổng công suất các trạm 220kV trên địa bàn Hà Nội mới có 2.750MVA, do vậy để đáp ứng nhu cầu điện cho Hà Nội trong năm nay cần bổ sung công suất khoảng 500MVA cho trạm 220kV và quan trọng là phải đưa vào vận hành đường dây 220kV Vân Trì - Sóc Sơn trước tháng 5 mới bảo đảm cung cấp điện cho Hà Nội trong mùa khô. Trong trường hợp không có thêm trạm 220kV nào được vận hành, năm nay Hà Nội sẽ chỉ có 5 trạm/11 máy biến áp 220kV và hỗ trợ từ TBA 220kV Phố Nối. Như vậy, khu vực Hà Nội sẽ luôn trong tình trạng đầy, quá tải ngay cả trong chế độ vận hành bình thường, thậm chí có thể quá tải đến 150% khi bị sự cố. Kể cả trong trường hợp nhu cầu phụ tải tăng trưởng thấp hơn với dự báo vẫn xảy ra tình trạng lưới điện bị đầy tải, quá tải. Đáng lo ngại, các đường dây bị đầy tải, quá tải đều là các đường dây có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cung cấp điện cho Hà Nội, như các trạm 220kV Chèm, Hà Đông, Mai Động, các đường dây 220kV Hòa Bình - Hà Đông, Hòa Bình - Xuân Mai… nên có khả năng phải cắt 15-20% phụ tải ở một số khu vực của Hà Nội (quận Hà Đông và các huyện Đông Anh, Gia Lâm).
Trong số các công trình lưới điện cần đưa vào vận hành, công trình trạm biến áp 220kV Vân Trì, các đường dây 220kV Vân Trì - Sóc Sơn, Vân Trì - Chèm có tính cấp thiết nhất, vì ngoài vai trò cấp điện trực tiếp các phụ tải phía bắc TP, còn truyền tải nguồn điện vào khu vực trung tâm, giảm tình trạng đầy tải, quá tải cho các đường dây 220kV từ Nhà máy thủy điện Hòa Bình về Hà Nội và tăng tính tối ưu trong vận hành hệ thống.
Ngoài ra, năm nay EVN HNPC cũng tập trung thực hiện đưa vào vận hành trạm 110kV Phúc Thọ, Phùng Xá sau khi cải tạo, nâng công suất; xây dựng mới trạm Trôi và nhánh rẽ, trạm Linh Đàm, Bắc An Khánh, Quang Minh; cải tạo các đường dây Hà Đông - Vân Đình, Mai Động - Bờ Hồ, Đông Anh - Gia Lâm, Nghĩa Đô - Thanh Xuân - Thành Công, Văn Điển - Tía, Đông Anh - Vân Trì.
Để bảo đảm cấp điện cho Hà Nội, nhất thiết phải đưa các công trình lưới điện sau đây vào vận hành trong năm nay: Trạm 220kV Vân Trì và đường dây 220kV Vân Trì - Sóc Sơn (cuối quý I); đường dây 220kV Vân Trì - Chèm (quý II); trạm 220kV Thành Công, đường dây 220kV Hà Đông - Thành Công (cuối năm) và mở rộng nâng công suất trạm biến áp 220kV Sóc Sơn. Chưa kể tới các công trình nhằm tăng cường khả năng cấp điện cho Hà Nội, như đường dây 500kV Quảng Ninh - Thường Tín (mạch 2); cải tạo nâng khả năng tải đường dây 220kV Hòa Bình - Xuân Mai để tăng cường truyền tải điện từ Nhà máy thủy điện Hòa Bình về Xuân Mai, Hà Đông (quý I), Phả Lại - Phố Nối - Hải Dương để tăng cường truyền tải điện từ Nhà máy nhiệt điện Phả Lại, các nhà máy nhiệt điện Đông Bắc về Hà Nội; đường dây 220kV Đồng Hòa - Thái Bình - Nam Định (mạch 2); đường dây 110kV Bắc Giang - Quang Châu để giảm tải cho trạm biến áp 110kV Đông Anh.
Theo Thanh Mai - Hà Nội mới

Việt Nam thiếu nước trầm trọng


Việt Nam chính thức được xếp vào nhóm quốc gia thiếu nước.
Thông tin được các nhà khoa học chia sẻ tại hội thảo lần đầu tiên về an ninh nguồn nước do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao (Bộ Ngoại giao) tổ chức ngày 1-11 tại Hà Nội.
Sông Hồng trơ đáy ngày 23-3-2011. Ảnh: Xuân Phú.
Loạn khai thác
Theo GS.TS Ngô Đình Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Khoa học, Viện Tài nguyên Nước & Môi trường Đông Á, lượng nước mặt bình quân tính theo đầu người ở Việt Nam năm 2010 chỉ còn 3.850 m3/năm. Con số này đã đưa Việt Nam (VN) vào nhóm quốc gia thiếu nước với ngưỡng từ 4.000 m3/người/năm trở xuống (ngưỡng do Hội Tài nguyên Nước Quốc tế (IWRA) quy định).
Theo PGS.TS Bùi Công Quang, Trường Đại học Th ủy lợi, với dân số và mức độ phát triển hiện tại, theo tiêu chuẩn trên, lưu vực sông Đồng Nai và các lưu vực sông ở Đông Nam Bộ đang đối mặt nguy cơ thiếu nước không thường xuyên và cục bộ, trong khi các sông Hồng, Mã và sông Côn đang tiệm cận mức độ thiếu nước này.
Một trong những báo động về an ninh nguồn nước ở VN là tình trạng loạn khai thác nguồn nước, dẫn đến hiện tượng khai thác quá mức chịu đựng của hệ sinh thái. Bà Đỗ Hồng Phấn, cố vấn trưởng Mạng lưới Nước Việt Nam cho hay bà không tin được hầu hết các ủy ban lưu vực sông trong nước dựng lên chỉ để làm vì, hầu như không phát huy được vai trò điều phối và kiểm soát khai thác nước.
Lấy ví dụ ở hệ thống sông Đồng Nai, nơi đang tồn tại hai tổ chức quản lý là Ủy ban Bảo vệ Môi trường Lưu vực sông Đồng Nai và Ban Quản lý Quy hoạch Lưu vực sông Đồng Nai. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, hai đơn vị này hoạt động hầu như không biết đến nhau, thể hiện điển hình trong việc xử lý hai dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A vừa qua.
Theo tiêu chuẩn quốc tế về “căng thẳng do khai thác nguồn nước”, vào mùa khô mấy năm gần đây, sáu trong số 16 lưu vực sông cả nước ta được xếp loại là “căng thẳng trung bình”, bốn lưu vực khác được xếp loại “căng thẳng mức độ cao” trong đó có sông Mã (Thanh Hóa), sông Hương (Thừa Thiên Huế) và sông Đồng Nai (Đông Nam Bộ).
Trên hầu hết các lưu vực sông ở Đông Nam Bộ, hơn 75% lượng nước mùa khô bị khai thác. Tại lưu vực sông Mã, tỷ lệ nước khai thác lên đến gần 80%. “Các tỷ lệ trên cho thấy các hoạt động khai thác nước quá mức đã và sẽ tạo nên mức độ rất không bền vững cho các lưu vực”, PGS.TS Bùi Công Quang nhận định.
Hiện tại, lượng nước được sử dụng hằng năm cho tất cả các mục đích khoảng 80,6 tỷ m3. Đến năm 2020, tổng lượng nước sử dụng sẽ tăng lên khoảng 120 tỷ m3, tức tăng thêm 48%. Trong số đó, nước cho tưới tăng 30%, cho nuôi trồng thủy sản tăng 90%. Đặc biệt, nước cho đô thị và công nghiệp sẽ tăng chóng mặt, lên đến mức 150% và 190% tương ứng.
Dự báo nhu cầu nước sẽ tăng đáng kể trên các lưu vực sông Trà Khúc, Côn, Ba, Sê San, Sre Pok, và các lưu vực sông ở vùng Đông Nam Bộ.
Lưu vực sông Đồng Nai - Báo động đỏ
Dự báo dân số tới năm 2020 cho thấy, các lưu vực sông Hồng, Mã, Côn, và ở Đông Nam Bộ sẽ ở ngang hoặc dưới mức thiếu nước nếu được quản lý và điều phối tốt. Tuy nhiên, khả năng rất cao là lưu vực sông Đồng Nai sẽ tiến gần tới mức thiếu nước nghiêm trọng nếu xét về tổng lượng nước hằng năm.
Khu vực sông Đồng Nai có khoảng 20 triệu dân. Đây là vùng kinh tế năng động bậc nhất cả nước, là đầu tàu cho nền kinh tế quốc gia, hằng năm đóng góp tới 1/3 tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Suy thoái nước ở lưu vực sông này, theo các nhà khoa học, sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến sức cạnh tranh của cả nước.
Vậy mà, ngay bây giờ, trên lưu vực con sông có tổng lượng nước chỉ bằng 1/3 trung bình cả nước này, còn chịu tải lực quá lớn của các công trình thủy điện ở thượng lưu.
Theo Tiền Phong Online

NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI VÀ VẤN ĐỀ SÔNG MEKONG


Logo World Water Day 2012, mang rất nhiều ý nghĩa với “Nhánh Lúa và Cá” cũng là hai biểu tượng cho nguồn lương thực của con Sông Mekong. Đã có có một nền “Văn minh Lúa Gạo và Cá” trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong / GMS và nền văn minh ấy đang lâm nguy
NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI VÀ NHỮNG CHỦ ĐỀ
Cách đây 19 năm kể từ 1993, Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 22 tháng 3 mỗi năm là Ngày Nước Thế Giới (World Water Day), do sáng kiến từ Hội nghị Môi sinh và Phát triển (United Nations Conference on Environment and Development – UNCED) tại Rio de Janeiro, Brazil [1992].

Có thể nói, nước là biểu hiện của sự sống, vì thế mỗi khi tìm ra tín hiệu có nước trên một vì tinh tú xa xôi thì các nhà khoa học thiên văn đã lạc quan cho rằng có thể có sự sống và sinh vật ở trên đó. Trái đất này sẽ là một hành tinh chết nếu không có nước. Nhưng trước mắt, thì thiếu nước đang là một vấn nạn ngày càng trầm trọng của thế giới chúng ta đang sống hiện nay.

Ngày Nước Thế Giới, như cơ hội để mọi người quan tâm tới tầm quan trọng của nguồn nước ngọt (freshwater) và cùng nhau vận động hỗ trợ cho những phương cách quản lý bền vững các nguồn nước ấy. Mỗi năm Liên Hiệp Quốc đều chọn ra một “chủ đề” cho Ngày Nước Thế Giới để tập trung vận động qua những cuộc hội thảo, qua các phương tiện truyền thông và giáo dục xoay quanh mỗi chủ đề này.
Điểm qua các chủ đề ấy theo thứ tự thời gian: 1994 Nước Nguồn tài nguyên chúng ta cùng bảo vệ; 1995 Nước và phụ nữ ; 1996 Nước cho các đô thị thiếu khát; 1997 Nước thế giới: Có đủ không? 1998 Nước ngầm: tài nguyên không thấy; 1999 Mọi người sống dưới nguồn; 2000 Nước cho thế kỷ 21; 2001 Nước cho sức khỏe; 2002 Nước cho phát triển; 2003 Nước cho tương lai; 2004 Nước và những thảm họa; 2005 Nước cho cuộc sống; 2006 Nước và văn hóa; 2007 Nước thiếu hụt trên thế giới; 2008 Nước và vệ sinh; 2009 Nước xuyên các quốc gia; 2010 Nước sạch và sức khỏe thế giới; 2011 Nước cho các đô thị…
NGÀY NƯỚC THẾ GIỚI NĂM NAY 2012
Ngày Nước Thế Giới 2012 năm nay với chủ đề “Nước và An ninh Lương thực”(Water & Food Security), do Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (Food and Agriculture Organization of the UN) điều hợp. Tổ chúc này nhận định: hiện có 7 tỉ người phải nuôi ăn trên hành tinh này; dự trù thêm 2 tỉ người nữa vào năm 2050. Mỗi chúng ta uống từ 2 tới 4 lít nước mỗi ngày; phần lớn lượng nước “uống” ấy nằm sẵn trong thực phẩm mà chúng ta ăn: để sản xuất 1 kg thịt bò cần tới 15.000 lít nước, trong khi 1 kg ngũ cốc cần 1.500 lít nước, 1 kg rau trái chỉ cần 1.000 lít nước nghĩa là 15 lần ít hơn. Hiện trạng trên thế giới đã có “một tỉ người đói kinh niên”(chronic hunger) và nguồn tài nguyên nước thì co cụm lại khắp nơi. Để đương đầu với tình trạng nổ bùng dân số, bảo đảm an ninh lương thực cho mọi người thì cần tới những hành động cụ thể như:
1) Tiêu thụ sản phẩm cần ít nước; (2) Giảm phí phạm lương thực: 30% lượng thực phẩm không bao giờ ăn tới, có nghĩa là mất một lượng nước lớn để sản xuất; (3) Gia tăng lượng lương thực nhiều hơn, có phẩm chất hơn và tiêu thụ nước ít hơn; (4) Theo một chế độ dinh dưỡng lành mạnh hơn, với ngũ cốc rau trái thay vì ăn nhiều thịt. Tất cả những bước ấy, từ quá trình sản xuất tới tiêu thụ, làm thế nào để tiết kiệm nguồn nước và bảo đảm lương thực cho mọi người. “Nước và An ninh Lương thực”, đó là trọng điểm trong cuộc vận động nhân ngày Nước Thế Giới 2012 năm nay.
José Graziano da Silva, tân Giám đốc Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (với nhiệm kỳ ba năm rưỡi 2012-2015) trong cuộc họp báo nhậm chức ở Rome ngày 3 tháng 01/ 2012 đã đưa ra một kế hoạch đầy tham vọng: hoàn toàn xóa nạn đói và suy dinh dưỡng trên toàn cầu. Ông phát biểu: “Chấm dứt nạn đói đòi hỏi quyết tâm của mọi người: không phải chỉ có Tổ chức Lương Nông, hay bất cứ cơ quan, chánh phủ riêng lẻ nào có thể thắng được cuộc chiến này, mà phải cần tới những phương thức hành động thật sự “trong sáng và dân chủ”(transparent and democratic way) cùng với các quốc gia thành viên, các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, khu vực tư nhân, xã hội dân sự và các nhóm đầu tư khác.”
Người ta có thể thấy ngay là “phương thức hành động trong sáng và dân chủ” chính là điều rất thiếu vắng trong các quốc gia Mekong.Cách đây hai năm, nhân Ngày Nước Thế Giới 2010 với chủ đề “Nước sạch và sức khỏe thế giới”, Ngoại trưởng Hillary Roddham Clinton đã phát biểu: “Nước là một trong những cơ hội lớn về ngoại giao và phát triển trong thời đại chúng ta.” Bà Clinton nhận định tiếp: “Không phải mỗi ngày chúng ta tìm được một vấn đề mà hiệu quả về ngoại giao và phát triển giúp cứu sống hàng triệu sinh mạng, cứu đói, tăng sức mạnh phụ nữ, thăng tiến quyền lợi an ninh quốc gia chúng ta, bảo vệ môi trường, và cùng chứng tỏ với hàng tỉ người trên thế giới là nước Mỹ quan tâm tới sự an sinh của họ. Nước chính là nan đề đó.”
HỆ SINH THÁI SÔNG MEKONG
Mekong được đánh giá là một trong những hệ thống sông rạch phức tạp nhất thế giới, với chiều dài 4,900 km, là con sông dài thứ 11 của toàn cầu cũng là con sông dài nhất Đông Nam Á chảy qua 6 quốc gia, gần gấp hai chiều dài sông Colorado. Tài nguyên lưu vực con sông nuôi dưỡng 70 triệu cư dân, chỉ riêng nguồn cá đã đem lại hơn hai tỉ đô la Mỹ mỗi năm.
Lưu lượng Mekong tương đương với con sông Mississippi, giàu phù sa, rất biến thiên với hai mùa mưa nắng. Trong mùa mưa chỉ có khoảng 16% lượng nước đổ xuống từ Vân Nam Trung Quốc. Nhưng trong những tháng mùa khô, thì lượng nước thượng nguồn ấy lại tăng tới 40%. Do sự phức tạp của lưu vực sông Mekong, hiện tượng hạn hán và lũ lụt cũng rất biến thiên theo từng khúc đoạn từng vùng.
Biển Hồ và sông Tonle Sap là một hiện tượng thiên nhiên kỳ diệu, với một chu kỳ gần như độc nhất vô nhị trên hành tinh này: Tonle Sap là con sông chảy hai chiều và diện tích Biển Hồ thì co dãn theo mùa. Là hồ cạn với diện tích 2.500 km2 trong mùa khô, nhưng tới mùa mưa, bắt đầu từ tháng 6 tháng 7, do nước con sông Mekong dâng cao tạo sức ép khiến con sông Tonle Sap phải đổi chiều, nước từ khúc sông Mekong thượng nguồn chảy ngược vào Biển Hồ khiến nước hồ dâng cao từ 8 tới 10 mét và tràn bờ, làm tăng diện tích Biển Hồ gấp 5 lần lớn hơn, khoảng 12.000 km2. Joseph Yun, phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao Đông Á và Thái Bình Dương đã đưa ra một so sánh rất tượng hình là lượng nước Biển Hồ ấy đủ để bao phủ toàn diện tích hơn 20 ngàn km2 của tiểu bang New Jersey với hơn ba mét nước cao.
Do tiềm năng dự trữ nước rất lớn theo mùa, Biển Hồ có thể điều hòa lưu lượng con sông Mekong, giảm thiểu lũ lụt trong mùa Mưa, duy trì dòng chảy tối thiểu trong mùa khô, đồng thời ngăn chặn nước biển không lấn sâu thêm vào vùng châu thổ.
Biển Hồ có một vai trò điều hợp sinh tử đối với hệ sinh thái vùng Hạ Lưu: không chỉ là vựa cá quan trọng nhất của Campuchia, mà nguồn nước ấy là thiết yếu cho vựa lúa cùng với kỹ nghệ nuôi cấy thủy sản như cá basa xuất khẩu của của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). ĐBSCL không chỉ là cái nôi lúa gạo cho toàn Việt Nam, vốn cũng là quốc gia xuất cảng gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Theo Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program) thì tình trạng sản xuất lúa gạo ở Việt Nam năm 2010, đã bị ảnh hưởng nặng nề do thay đổi khí hậu và do các con đập thủy điện thượng nguồn.
Có thể nói Sông Mekong là “mạch sống”(lifeline) của bao nhiêu triệu cư dân trong lưu vực. Nông và ngư nghiệp chiếm tới 85% lực lượng lao động: nông dân thì phụ thuộc vào nguồn nước và phù sa; ngư dân thì sống bằng nguồn cá thiên nhiên của con sông, cá không chỉ là nguồn protein động vật chính trong dinh dưỡng mà còn đem lại lợi tức đáng kể cho họ. Do đó nông và ngư dân lưu vực sông Mekong sẽ là những nạn nhân trực tiếp bị ảnh hưởng do bất cứ một thay đổi hủy hoại nào trong môi trường sống của họ.
Với thay đổi khí hậu, lưu vực sông Mekong sẽ là một trong những vùng chịu ảnh hưởng tác hại nhất, do đa số cư dân sống trên những cánh đồng lũ (floodplains) và các vùng ven biển thấp. Sự đa dạng sinh học của toàn vùng cũng bị đe dọa bởi những ảnh hưởng tích lũy trực tiếp hoặc gián tiếp do thay đổi khí hậu, cộng thêm với sự tác hại của những con đập thủy điện đầy những khiếm khuyết về phương diện kỹ thuật và đang phát triển vội vã như hiện nay.
Trong khi không thiếu bài học về “những dòng sông chết trên thế giới” mà các nhà lãnh đạo sông Mekong không chịu học hay cố tình không biết (wilful ignorance), vẫn theo ngôn từ của Milton Osborne; điển hình như con sông quốc tế Indus cũng phát nguồn từ cao nguyên Tây Tạng dài 3,200 km chảy qua hai nước Ấn Độ và Pakistan, vốn một thời là con sông hùng vĩ từng là cái nôi của những nền văn minh, nay chỉ vì do xây quá nhiều đập nên đã không còn đủ nước chảy ra tới biển Ả Rập.
Trở lại với con sông Mekong, chỉ để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển, các quốc gia Mekong vội vã hướng tới khai thác nguồn thủy điện của con sông này. Điều mà họ ít quan tâm tới là khi xây các con đập trên dòng chính có thể gây tác hại tức thời và cả lâu dài tới “an ninh lương thực” của bao nhiêu triệu cư dân trong lưu vực.
Tuy những hứa hẹn lợi nhuận to lớn trước mắt do thủy điện có thể đem lại, cái giá phải trả về kinh tế do các con đập gây ra rất cao. Mỗi con đập cho dù lớn nhỏ đều có ảnh hưởng trên dòng chảy và sinh cảnh của con sông. Chỉ một con đập xây không đúng chỗ như con đập Don Sahong Nam Lào, có thể ngăn chặn các đoàn di ngư, ảnh hưởng trực tiếp trên nguồn cá cũng là nguồn protein chính của cư dân trong lưu vực. Hoặc một con đập thiết kế kém với nhiều khiếm khuyết như con đập Sambor phía Bắc Campuchia, có thể làm giảm nguồn nước ngọt, làm mất nguồn phù sa, tăng nạn nhiễm mặn và ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất lúa gạo không chỉ của Campuchia mà cả ĐBSCL của Việt Nam.
Chuỗi đập bậc thềm Vân Nam (Lancang-Mekong Cascade) nơi lưu vực thượng nguồn (Upper Mekong Basin) chắc chắn có ảnh hưởng đáng kể đối với dòng chảy thiên nhiên của con sông Mekong. Theo Fred Pearce, thì vào đầu thập niên tới, chuỗi đập Vân Nam sẽ có khả năng giữ lại hơn nửa lưu lượng dòng chảy của con sông Mekong trước khi ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Đối với Bắc Kinh, con sông Mekong đã trở thành “Tháp Nước và Nhà Máy Điện” của riêng họ. [6]
Nhưng chuỗi đập dòng chính nơi lưu vực hạ nguồn (Lower Mekong Basin) sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn nhiều đối với các quốc gia hạ lưu, đặc biệt là với Biển Hồ của Campuchia và ĐBSCL của Việt Nam. Người ta đã nói tới những con đập dòng chính trên đất Lào, nhưng cũng đừng quên rằng ngay trên đất Campuchia đã có hai dự án Stung Streng 980 MW và Sambor 2.600 MW gây tác hại trực tiếp đối với sản lượng cá của Biển Hồ và làm mất nguồn phù sa nơi ĐBSCL. Chấp nhận xây dựng hai con đập ấy ngay trên đất Chùa Tháp, Phnom Penh như cầm súng tự bắn vào chân mình, một thứ self-inflicted injury – và Việt Nam cũng không tránh được những tổn thất liên hệ.
Không thể phủ nhận thủy điện vẫn là nguồn năng lượng giá trị, nhưng chỉ trong chừng nào mà cái giá rất cao phải trả về môi sinh được lượng định đúng mức và tiến hành một cách thận trọng và có trách nhiệm. Để có con đập thủy điện mới, có những cây cầu và đường sá mới không thể không đồng thời cũng phải đối chiếu với cái giá phải trả về môi trường và cả đối với cuộc sống cư dân ra sao. Ví dụ như nước Lào, với nguồn thủy điện phong phú có thể xuất cảng để thu về ngoại tệ cho phát triển kinh tế, nhưng nếu không có những bước nghiên cứu thận trọng thì đó chỉ là bước phát triển rất ngắn hạn, không bền vững với nhiều tổn thất trước mắt và lâu dài đối với môi sinh và cuộc sống xã hội của chính những người dân Lào.
SÔNG MEKONG ĐANG CHỊU QUÁ TẢI
Hệ sinh thái sông Mekong hiện đã có những dấu hiệu bị quá tải. Không phải chỉ có tác hại từ các con đập thủy điện mà còn thêm những ảnh hưởng tích lũy do ô nhiễm từ công nghiệp, nước thải, và phân bón hóa học từ canh nông.
Duy trì phẩm chất nguồn nước con sông Mekong là yếu tố vô cùng quan trọng cho “sức khỏe và lương thực” của 70 triệu cư dân trong toàn lưu vực. Nạn nhiễm mặn ngày càng gia tăng nơi ĐBSCL, nhất là trong những tháng mùa khô giảm lưu lượng dòng chảy khiến nước biển lấn sâu thêm vào vùng châu thổ phá hại mùa màng; lại thêm tình trạng đất phèn làm tăng độ acid trong nước, gây bội phát lượng rong tảo trong nước (eutrophycation), làm giảm lượng oxygen có thể tới ngưỡng tử vong làm chết cá và các động vật dưới nước.
Nước từ thượng nguồn đã bị ô nhiễm cộng thêm với nạn ô nhiễm dưới nguồn khiến hệ sinh thái của con sông càng ngày càng suy thoái. Xả các chất phế thải, cả phóng uế xuống sông là điều vẫn diễn ra thường ngày nơi ĐBSCL. Các quốc gia Mekong trong đó có Việt Nam gần đây cũng bắt đầu đề cập tới nạn ô nhiễm nước, nhưng đa số chỉ như những khẩu hiệu và để rồi không có biện pháp chế tài hay theo dõi hiệu quả nào.
CẦN SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN
Hội Nghị cấp Bộ trưởng 4 quốc gia hạ lưu Mekong tháng 12, 2011 đã có một quyết định là “tạm ngưng dự án đập thủy điện Xayaburi”, là con đập dòng chính đầu tiên trên sông Mekong bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc; để có thêm thời gian nghiên cứu về ảnh hưởng của con đập, và Nhật Bản được chính thức yêu cầu hỗ trợ cho cuộc khảo sát môi sinh này. Nhưng không có một dấu hiệu tích cực nào cho thấy chánh phủ Lào và tập đoàn kinh tài Thái Lan hoãn xây con đập ấy. Rõ ràng là tinh thần Hiệp định Mekong theo điều 7 trong “Hiệp ước Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mekong 1995″ đang thực sự bị thử thách.
Sự phong phú của hệ sinh thái sông Mekong chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon, Nam Mỹ nhưng lại có một khác biệt lớn là hai bên bờ sông Mekong có cư dân sống với mật độ cao. Eric Baran một chuyên gia của Trung tâm Ngư học Thế giới (WorldFish Centre) đã từng hỗ trợ Ủy hội sông Mekong khảo sát ảnh hưởng của các đập thủy điện trên hệ sinh thái sông Mekong, đã phát biểu: “An ninh lương thực phải là vấn đề cốt lõi nhất (the most critical issue).” Đã có 781 chủng loại cá được xác định, nhưng còn nhiều chủng loại cá khác chưa được biết tới, trung bình mỗi năm có thêm 28 chủng loại mới được phát hiện trong thập niên qua. Mỗi năm ngư dân Mekong lưới bắt được 2,1 triệu tấn cá (3 triệu tấn một năm theo MRC 09-2008), chiếm khoảng 1/6 lượng cá nước ngọt thế giới.
Tiến sĩ Baran tiếp: “Kết hợp đặc tính của các đoàn di ngư và sự phụ thuộc của cư dân trên nguồn cá này là nét đặc thù duy nhất (unique), và “an ninh lương thực” trong lưu vực phải là mối quan tâm hàng đầu của các chánh phủ Mekong khi xây các con đập. Do đó không phải chỉ có bảo vệ môi trường và số người phải tái định cư, mà vấn đề còn lớn hơn rất nhiều. Khai thác thủy điện và an ninh lương thực trong lưu vực sông Mekong có lẽ là nét đặc thù duy nhất trên hành tinh này.”
Theo dự báo của MRC, thì tới năm 2030 với 88 con đập dòng chính và phụ lưu hoàn tất, sẽ có tới 81% các đoàn di ngư bị chặn lại, phải làm sao cùng với các bước phát triển xây đập mà vẫn bảo vệ được nguồn lương thực cho cư dân trong lưu vực. Do đó cần tới sự tái phối trí các dự án đập hiện nay, với nhận định rằng ảnh hưởng tác hại của các con đập thủy điện sẽ được giảm thiểu nếu là những con đập phụ lưu (tributary dams); hoặc nếu là đập dòng chính (mainstream dams) thì nên là những con đập ở vị trí ở xa lên phía thượng nguồn.
Theo chiều hướng đó, không nhất thiết là phải ngưng tất cả các dự án đập thủy điện nhưng nhóm nghiên cứu của Baran đưa ra những đề nghị cụ thể: (1) Các con đập sẽ không cao hơn 30 mét để có thể vẫn mở những đường đi hiệu quả cho cá (như chỉ riêng con đập Xayaburi cao 32 mét cũng đã ngăn chặn hơn 70 chủng loại di ngư). (2) Nên xây đập trên những dòng chảy nhân tạo (man-made canals) giống như ở Pháp và Âu châu, thay vì trên dòng chảy thiên nhiên, sẽ có tác dụng giảm hiểu tác hại tiêu cực trên dòng sông. (3) Những con đập nên được thiết kế cho mục đích đa dụng (multi-purpose structures) thay vì chỉ có sản xuất điện, nhằm giảm thiểu những tổn thất trên môi trường và xã hội.
TĂNG TRƯỞNG XANH LƯU VỰC SÔNG MEKONG
Không phải là ngẫu nhiên, một Hội nghị 6 quốc gia trong Lưu vực lớn sông Mekong (Greater Mekong Subregion – GMS), còn có một tên gọi khác là Tiểu vùng sông Mekong, bao gồm Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Myanmar và Trung Quốc, và cơ quan tài trợ là Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) đã diễn ra tại Bangkok trong hai ngày 20, 21 tháng 2, 2012 vừa qua. Hội nghị Bangkok đã như một cộng hưởng chuẩn bị cho Ngày Nước Thế Giới 2012 vào tháng 3 sắp tới, với nhận định: quản lý các nguồn lương thực, nước và năng lượng trong Lưu vực lớn sông Mekong là thử thách nghiêm trọng nhất trong thập niên tới đây. Tới năm 2030, nhu cầu lương thực của Lưu vực lớn sông Mekong gia tăng từ 20-50%, nhu cầu nước cho canh nông, cho phát triển năng lượng, cho gia dụng và công nghiệp cũng sẽ tăng theo cấp số nhân; trong khi nguồn nước trên mặt đất và nước ngầm thì ngày càng cạn kiệt và suy thoái.
“Cân bằng tăng trưởng kinh tế và sự bền vững môi trường”(Balancing Economic Growth and Environmental Sustainability)là chủ đề của của hội nghị với mục đích tìm ra một hướng đi tối ưu cho tăng trưởng kinh tế và bền vững môi trường. Điều ấy đòi hỏi những đầu tư khôn ngoan trong phát triển như: sử dụng nguồn năng lượng sạch, gia tăng trồng trọt với ít nước hơn, cải tiến kỹ thuật sinh học để giảm sử dụng phân bón hóa học, thu hoạch thêm lượng nước mưa và tái tạo nguồn nước từ các trung tâm đô thị.
Stephen P. Groff, Phó Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Á châu đã phát biểu: “Chúng ta cần phác thảo một lộ trình / roadmap tới năm 2020 nhằm hỗ trợ người nghèo, hỗ trợ môi trường. Thách đố là làm sao gia tăng hiệu quả xử dụng tài nguyên, phục hồi và tái đầu tư các nguồn tài nguyên thiên nhiên ấy, đồng thời bảo vệ phẩm chất môi trường khi tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế.”
Ông Dương Đức Ưng, từ Việt Nam, đã cho RFA biết thêm một số thông tin từ hội nghị như: “Sự quan tâm không chỉ về an ninh lương thực mà cả an toàn thực phẩm phải gắn kết với nhau. Việt Nam hiện nay đã có an toàn lương thực cho mình rồi và xuất khẩu 7 triệu tấn lương thực ra thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan”. [8] Theo nhận định của người viết thì thành tích phô trương ấy của Việt Nam đã không có gì mới, nhưng câu hỏi được đặt ra là liệu sẽ bền vững được bao lâu và phía Việt Nam có sáng kiến đóng góp được gì cho tầm nhìn xa chiến lược “phát triển xanh bền vững” của toàn Lưu vực lớn sông Mekong trong đó có ĐBSCL.
ADB đã thông qua 50 dự án liên quan tới bền vững môi trường Lưu vực lớn sông Mekong trị giá 4.8 tỉ đô la Mỹ. Các nhà lãnh đạo GMS đã đồng thuận về một “chiến lược tăng trưởng xanh” (green growth agenda) cho toàn vùng nhưng vấn đề vẫn là làm sao để theo dõi và thực thi một cách hiệu quả những cam kết ấy.
CÁI GIÁ QUÁ ĐẮT CHO PHÁT TRIỂN
Ngày Nước Thế Giới 2012 năm nay với chủ đề “Nước và an ninh lương thực”không chỉ là một thông điệp mỗi năm của Liên Hiệp Quốc gửi ra cho toàn cầu nhưng với khu vực Đông Nam Á – nơi đang có tranh chấp về quyền lợi khai thác con sông Mekong – thì lại có ý nghĩa báo động nghiêm trọng hơn nhiều đối với nền an ninh toàn vùng.
Bước vào thế kỷ 21, có thể nói các quốc gia Mekong, trong đó có Việt Nam tuy được coi là những quốc gia đang phát triển, nhưng theo những bước không bền vững. Và cái giá cao nhất mà thế hệ hôm nay và cả tương lai phải trả là mất nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, mất “an ninh lương thực” đưa tới viễn ảnh nghèo khó và quan trọng hơn thế nữa là chính sức khỏe của người dân sẽ là cả một gánh nặng về y tế do không có an toàn thực phẩm, thêm nạn ô nhiễm môi trường càng ngày càng trầm trọng nhất là về “nước và không khí”.
Nguồn: Bauxite Việt Nam

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Tuyển dụng - Nhân viên kinh doanh


                                                      

Dự án MEET-BIS Vietnam (www.meet-bis.vn) xin mời các ứng viên nộp hồ sơ vào vị trí Nhân viên kinh doanh (Sales and Marketing Agent), làm việc tại Hà Nội, hợp đồng dịch vụ trong thời gian 1 năm.  

DỰ ÁN MEET-BIS - THÔNG TIN CHUNG

MEET-BIS là dự án thúc đẩy sử dụng năng luợng hiệu quả và tiết kiệm thông qua việc hỗ trợ các sáng kiến kinh doanh. MEET-BIS là dự án 4 năm, với nguồn tài trợ từ chuơng trình Switch Asia của Ủy ban Châu Âu, đuợc thực hiện bởi 2 tổ chức Việt Nam và 3 tổ chức Hà Lan, gồm có: RCEE, IBCI, AdaPPPt, Aidenvironment và ETC Foundation. Với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực thành thị ở Việt Nam, dự án hỗ trợ các nhà cung cấp các sản phẩm tiết kiệm năng luợng và nuớc phát triển thị truờng thương mại huớng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ.  

NHIỆM VỤ VÀ CÔNG VIỆC CHÍNH:
Nhân viên kinh doanh sẽ hỗ trợ các nhà cung cấp các sản phẩm tiết kiệm năng luợng và nuớc phát triển và mở rộng thị phần bán hàng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công việc đòi hỏi khả năng giao tiếp tốt và sự năng động để làm việc với các nhà cung cấp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vị trí này làm việc trực tiếp dưới sự quản lý của Cán bộ điều phối đối tác. Công việc tập trung vào việc tổ chức các hoạt động phát triển kinh doanh cho các nhà cung cấp.

·       Quản lý và duy trì mạng lưới các nhà cung cấp trong các mảng hoạt động marketing và bán hàng.
·       Lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động marketing và bán hàng cho các nhà cung cấp và phối hợp các hoạt động giữa các nhà cung cấp với nhau.
o    Phân tích và nghiên cứu thị trường.
o    Phát triển và áp dụng các tài liệu và công cụ marketing.
o    Giới thiệu và phát triển mạng luới phân phối.
o    Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các hội thảo, triển lãm, kinh nghiệm thành công.
·       Liên hệ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực thị trường mục tiêu đã định sẵn để kết nối với các nhà cung cấp.
·       Trao đổi qua điện thoại với các nhà cung cấp để theo sát việc tổ chức các hội thảo, triển lãm, chiến dịch gửi thư trực tiếp, và các hoạt động/ sự kiện khác.
·       Tổ chức gặp gỡ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giới thiệu các giải pháp khả thi của các nhà cung cấp, nhằm tăng cường sự hiểu biết và mối quan tâm của các doanh nghiệp. 
·       Hỗ trợ các nhà cung cấp để kết thúc bán hàng thành công.
·       Theo dõi hoạt động bán hàng của các nhà cung cấp.
·       Phát triển, duy trì và cập nhật dữ liệu khách hàng:
o    Củng cố hệ thống thông tin khách hàng như: tên, địa chỉ, chức danh, địa chỉ email/ số fax...
o    Thu thập tên và số điện thoại của các khách hàng tiềm năng từ các nguồn như: danh bạ điện thoại, tạp chí, và các danh sách từ các tổ chức khác.

Yêu cầu công việc:
Khả năng chuyên môn
§  Tốt nghiệp đại học ngành quản trị kinh doanh hoặc các ngành liên quan.
§  Tối thiểu 3 năm kinh nghiệm ở các vị trí tương đương trong môi trường kinh doanh.
§  Có kinh nghiệm trong các hoạt động hỗ trợ phát triển kinh doanh, bán hàng và marketing.
§  Có khả năng giao tiếp tốt bằng tiếng Việt. Ưu tiên ứng viên biết tiếng Anh.
§  Có khả năng giao tiếp tốt với các đối tác ở cấp độ quản lý.
§  Quan tâm tới công nghệ, giải pháp năng lượng/nước.
§  Kỹ năng viết báo cáo, sắp xếp công việc tốt và thành thạo vi tính văn phòng (Word, Excel, PowerPoint, E-mail and Internet).
§  Ưu tiên các ứng viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật năng lượng/nước có kinh nghiệm bán hàng, marketing, có tố chất và tư duy kinh doanh.

Phẩm chất cá nhân
§  Ưu tiên ứng viên nam
§  Tự tin, chủ động và có khả năng làm việc định huớng theo kết quả công việc. 
§  Năng động, có khả năng làm việc độc lập cũng như làm việc nhóm.
§  Có kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề, tư duy kinh doanh tốt.
§  Có khả năng giao tiếp và thuyết trình trong kinh doanh.
Chú ý: Không nhận hồ sơ của các ứng viên chưa từng có kinh nghiệm kinh doanh.

Điều khoản hợp đồng:
·       Đây là vị trí toàn thời gian theo hợp đồng dịch vụ tư vấn thời hạn dài nhất là 1 năm, không ký theo hơp đồng lao động.
·       Mức luơng cố định hàng tháng. Xét thưởng/tăng lương theo quý.
·       Nhân viên sẽ tự chịu trách nhiệm đóng các khoản tiền bảo hiểm (xã hội, y tế, thất nghiệp, v.v…) và thuế thu nhập cá nhân v.v…

Cách thức nộp hồ sơ:
Gửi thư xin việc và CV bằng Tiếng Việt hoặc Tiếng Anh cho Mrs. Ha (email: ha.do@rcee.org.vn), trước ngày 20 tháng 05 năm 2012.
Ưu tiên ứng viên nộp hồ sơ bằng Tiếng Anh.
Ưu tiên ứng viên có thể bắt đầu công việc ngay

Đây là công việc toàn thời gian (5 ngày/ tuần), làm việc tại Hà Nội, Việt Nam. Để biết thêm thông tin về dự án MEET-BIS, xin mời truy cập website: http://www.meet-bis.vn